nguyễn bỉnh khiêm tiên tri về bác hồ
Thuộc phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, tp Hải Phòng, gần trường THPT Thăng Long, trường ĐH Y Dược HP - Nhà 2 mặt tiền trước - sau, vỉa hè rộng hơn 4m, thuận tiện kinh doanh buôn bán. - DTMB: 76m2 (ngang 4m x 19m) - Hướng: Đông Nam - Bìa đỏ chính chủ, ngõ sau nhà rộng 3,2m đi
Mặc dù nguồn gốc đất trên đã rõ (đất hồ nước do UBND thị trấn Chư Sê quản lý) nhưng ngày 27-4-2021, UBND thị trấn Chư Sê có Công văn số 85/CV-UBND về việc xác minh 5 hộ sử dụng đất nông nghiệp tại dự án Trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi BQL (đơn vị được giao
Và rất nhiều món khác nữa! Nhà hàng Sườn nướng Hàn Quốc nằm ở khu vực gần đài truyền hình HTV, ngay trung tâm Thành phốHồ Chí Minh. Các món ăn của nhà hàng do chính đầu bếp đến từ Hàn Quốc chế biến, giúp mang đến đúng hương vị đặc trưng của từng món ăn. Vị
Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm (TP. Nha Trang) đang được đầu tư nâng cấp, mở rộng giai đoạn 1. Dự kiến cuối tháng 6, công trình sẽ hoàn thành đưa vào khai thác. Tổng mức đầu tư giai đoạn 1 hơn 120 tỷ đồng Năm 2013, UBND tỉnh có quyết định phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình nâng cấp, mở rộng đường Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Bất động sản Guland đang bán 0 cho thuê nhà đường nguyễn bỉnh khiêm, Quận Gò Vấp. Guland Cho thuê nhà đường nguyễn bỉnh khiêm, Quận Gò Vấp giá rẻ, đầy đủ thông tin, pháp lý rõ ràng. Hỗ trợ kiểm tra quy hoạch, vay vốn ngân hàng, thương lượng giá chính chủ
Aggressiv Flirten Frauen Ansprechen Begeistern Und Verführen. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi 1491 mất 1585, tên Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, tại Trung Am, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Cha là Văn Định tước Nghiêm Quận công, học vấn cao, đức độ. Mẹ là Từ Thục phu nhân, con gái Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan, học rộng, thông minh. Thiếu thời Nguyễn Bỉnh Khiêm học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Xôn xao chuyện tìm được mộ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Kỷ niệm 430 năm ngày mất danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm Lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - Nhà thông thái, nhà thơ lớn Xứ Nghệ “địa linh nhân kiệt” đã mấy trăm năm lưu truyền câu Sấm, đến đầu thế kỷ XX thì trở thành sự thật “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Nghĩa là “Núi Đụn phân đôi/ khe Bò Đái mất tiếng/ Nước sông Lam khoét vào núi Lam Thành/ đất Nam Đàn sinh thánh”. Các nhà Nho uyên thâm đều cho rằng lời Sấm ấy là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhiều người hỏi cụ Phan Bội Châu “Thánh” ở đây có phải cụ không? Cụ trả lời dứt khoát Là Nguyễn Ái Quốc. Cả lời Sấm và câu trả lời của cụ Phan đã được văn bản hoá in ở nhiều sách. Cụ Trạng Trình còn dự báo cả Cách mạng Tháng 8 năm 1945, qua câu thơ “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”. Có thể hiểu “đầu Thu” là tháng Tám dương lịch, “gà” là năm Ất Dậu 1945. Theo lối chiết tự thì “trăng xưa” nghĩa Nôm hiểu sang Hán tự là “cổ nguyệt” cổ = xưa, nguyệt = trăng, hai chữ Hán này ghép lại thì thành chữ “hồ”, chỉ Bác Hồ. Câu sau nói về sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ở Thăng Long Hà Nội. Cụ tiên đoán chắc chắn rằng “Hồng Lam ngũ bách nghinh thiên hạ/ Hưng tổ diên trường ức vạn xuân” Non nước Hồng Lam này sau ta 500 năm/ Sẽ là những mùa xuân hưng thịnh vĩnh viễn. Lịch sử đã khẳng định những tiên đoán của cụ hầu như đều đúng! Tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Ngay người Trung Hoa - đất nước của sấm ký, điềm, triệu cũng rất kính trọng và coi cụ là “An Nam lý số hữu Trình tuyền”Về lý số An Nam có cụ Trạng Trình. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi 1491 mất 1585, tên Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, tại Trung Am, nay là xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Cha là Văn Định tước Nghiêm Quận công, học vấn cao, đức độ. Mẹ là Từ Thục phu nhân, con gái Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan, học rộng, thông minh. Thiếu thời Nguyễn Bỉnh Khiêm học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Năm 44 tuổi mới đỗ đạt. Làm quan tới chức Tả thị lang, Đông các Đại học sĩ. Trước tác văn thơ của cụ nay được in thành Tổng tập "Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm - Tổng tập" 2014, NXB Văn học, 1647 trang, do Lê Hữu Nhiệm - Phạm Văn Ánh phiên âm, dịch, chú giải; "Bạch Vân am thi tập"; Lê Hiệu phiên Nôm. Cụ nổi tiếng ở cả thơ và sấm ký. Khái niệm “tiên tri” được hiểu là sự nhận thức đi trước thời đại, nhà tiên tri được hiểu là người biết được, tiên đoán được những sự kiện lớn sẽ xảy ra trong tương lai. Thế giới ghi nhận có rất ít người có khả năng này, như Nostradamus, Vanga, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Lời tiên tri là một mã văn hoá đặc biệt, nhiều khi bí hiểm nên để giải mã được người đọc phải vận dụng hiểu biết rộng rãi về tác giả, về văn hoá, chính trị, lịch sử, thời đại… Vì lẽ này mà dự đoán, tiên tri trở thành một nét văn hoá tâm linh luôn hấp dẫn, mời gọi. Trong văn học được nâng lên thành thi pháp kỳ ảo, huyền thoại. Ví dụ ở “Tam quốc diễn nghĩa” thì nhân vật Khổng Minh là nhà tiên tri kỳ tài. Các tiểu thuyết cổ điển truyền kỳ nước ta cũng có nhiều chi tiết tiên tri. “Truyện Kiều” cũng sử dụng thủ pháp này… Nhà tiên tri, tiếng Anh là prophet, gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là người phát ngôn của các vị thần. Ngay từ nguyên cũng cho thấy ở phương Tây, khái niệm tiên tri mang nghĩa truyền tin, rao giảng hơn là phán đoán, dự báo như ở phương Đông - là xứ sở có cả một nền triết học “Kinh Dịch” thần bí. Nhà tiên tri cổ điển phương Đông dứt khoát phải thật giỏi Kinh Dịch, như Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Sau này, Phan Bội Châu cũng rất giỏi Kinh Dịch. Nói thế cũng là một cách lý giải nhiều nhà tiên tri phương Đông do tự trang bị cho mình vốn kiến thức thật sự phong phú, sâu sắc Kinh Dịch được coi là tinh hoa của triết học cổ, là bộ bách khoa toàn thư kết hợp với sự nhạy cảm về thời thế chính trị, một tầm nhìn thông kim bác cổ mà có thể đưa ra những nhận định đi trước thời gian. Tác phẩm của họ, không chỉ trong sấm ký, mà trong văn thơ cũng giàu có chất triết lý về những quy luật của lịch sử, thời đại, về con người. Xin chứng minh trong thơ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để thấy sự thống nhất giữa thơ và sấm ký của ông. Nhà thơ sống dưới thời nhà Lê suy thoái, vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan, ngai vàng là chỗ để tranh giành, tàn hại. Các vua như Uy Mục, Tương Dực nổi tiếng xa hoa, dốt nát, dâm dật đến nỗi dân gian gọi bằng những cái tên khinh bỉ là “vua quỷ”, “vua lợn”. Nhà Mạc tiếm ngôi cũng không làm sáng thêm bức tranh lịch sử ảm đạm. Là người có chí, mà cụ ngầm nói muốn như con rùa “ngóc đầu vá trời” nhưng bất lực. Đời cụ hành ít tàng nhiều, xuất ít xử nhiều, đã rất băn khoăn “Thuở nay xuất xử đâu là phải/ Ở ắt nên, về cũng ắt nên”. Sự băn khoăn ấy lý giải cụ về hưu sớm rồi lại tham chính, tham chính lại về hưu, cả thảy đến ba lần. Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng với triết lý “nhàn”, nhưng không phải là nhàn kiểu chơi bời ở ẩn, mà là “nhàn” quan, không làm quan để đọc sách, làm thơ. Trong gần ngàn bài thơ của cụ có rất nhiều chữ tĩnh, tĩnh để suy ngẫm, tĩnh là một phép dưỡng sinh phải chăng nhờ thế mà cụ thọ gần một thế kỷ. Cơ bản nhất, tĩnh để hiểu lẽ trời “Càn khôn tĩnh lý suy” Lẽ trời đất hiểu được từ trong yên lặng… Cụ là nhà thơ triết lý, mà triết lý nhiều nhất là về chữ “tĩnh”. Cũng đúng với quy luật thông thường, nhờ có tĩnh để suy ngẫm sâu sắc hơn, nên thơ cụ cũng rất nhiều chữ tri. Tri là sự tính toán để biết thời thế “Tính toán đúng thì thừa thắng lợi/ Biết cơ ứng biến được vẹn toàn”. Có tri mới biết được bản chất, nguồn cội vấn đề “Chí tĩnh tri chân lạc” Thật yên lặng, nhìn rõ nguồn vui đích thực. Con người ta khi đạt đến độ hiểu biết nào đó giác ngộ mới đủ an nhiên tự tại mà nhận ra quy luật “Đất chuyển trời xoay tự nhiên/ Cơ tâm đều bỏ hết/ Được mất cũng vui lòng”… Có tri vốn hiểu biết mà người ta có trí nhận thức, nhận biết. Cụ đưa ra một nhận thức về chữ trí “Vị thức tiên cơ yên đắc trí” Chưa biết trước mọi việc sao có thể gọi là trí. Như vậy chữ trí gắn liền với tri mới có thể tiên tri. Đây cũng là quan niệm của Hồ Chí Minh sau này khi gọi văn nghệ sỹ là các bậc tiên tri, tiên giác! Muốn có tri, không cách nào khác phải đọc nhiều sách để tích vốn “Thi thư thiên quyển trợ nghiên tinh” Ngàn quyển thi thư giúp cho sự nghiền ngẫm đạt đến tinh vi. Còn ngược lại, lười đọc thì sẽ sa vào sự hoang dại, hoang hóa “Thánh học trăn vu cửu thất chân” Thánh học hoang vu, sẽ mất sự chân xác. Biết tĩnh, có tri, có trí nên trọng hòa, do vậy chữ hoà cũng xuất hiện trong thơ cụ với tần số rất cao. Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bình Khiêm ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Một xã hội lấy hòa làm trọng, lấy đạo đức làm gốc để giáo hoá con người, đó là xã hội hạnh phúc “Ôi, hòa là chủ của âm nhạc, thiện là gốc của giáo hóa. Khánh đá một khi treo lên, tiếng vang khôn cùng”. “Khánh đá” trở thành nghĩa biểu trưng cho nghệ thuật. Nghệ thuật phải như khánh đá kia, phải vang lên âm thanh chức năng báo hiệu tỉnh thức con người. Rõ ràng quan niệm của Trạng Trình thật sự hiện đại, mới mẻ! "Tĩnh, Tri, Trí, Hòa" như bốn đỉnh tháp tư tưởng sừng sững trong thế giới thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hình như nhà thơ muốn nói với hôm nay xây tòa nhà giáo dục cho xã hội cũng như xây ngôi nhà nhân cách cho mỗi người thì phải lấy bốn chữ này làm nền móng! Nếu thiếu Tĩnh, con người sẽ không có bình tĩnh, điềm đạm mà dễ nóng giận; thiếu Tri sẽ dễ vô văn hóa; thiếu Trí sẽ không nhận ra đâu là phải trái; thiếu Hòa sẽ dễ gây ra xung đột… Mà thực tế hôm nay con người ta hình như đang thiếu cả bốn điều cơ bản ấy!!! Một vĩ nhân có sở học, kiến văn rộng lớn, sâu sắc, có một quan niệm nhân sinh tiến bộ mang đậm tinh thần triết học như thế cho thấy Trạng Trình là nhà tiên tri cũng dễ hiểu! Hôm nay, biển Đông của chúng ta đang có kẻ dòm ngó, đã được cụ Trạng Trình tiên đoán trước 500 năm trong bài thơ “Cự Ngao Đới Sơn” Con rùa lớn đội núi. Cụ đã khẳng định chủ quyền và như tiếp thêm sức mạnh chính nghĩa cho con cháu “Vạn lý Đông minh quy bả ác/ Ức niên Nam cực điện long bình/ Ngã kim dục triển phù nguy lực/ Vãn khước quan hà cựu đế thành” Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững vàng hoà bình thịnh trị/ Nay ta muốn thi thố sức phù nguy/ Vãn hồi lại núi sông bờ cõi và kinh thành cũ của nhà vua. Niềm tin, khát vọng của cụ cũng là niềm tin, khát vọng của mọi người Việt Nam yêu nước!
Link gốc vị và các bạn thân mến, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm – người mà dân gian hay gọi là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông không chỉ được biết đến với tư cách đạo đức, tài thơ văn mà còn được biết tới với tài năng tiên tri ứng nghiệm, không ai trong nước Việt có thể vượt qua. Dân gian lưu truyền rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm có những dự đoán tương lai bí ẩn, thường gọi là Sấm Trạng Trình, mà cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc. Và trong số đó có cả lời tiên tri về Bác Podcast, các bạn có thể theo dõi chúng mình quaYoutube ơn nhiều nha!
VTC News - Cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra, người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc của những câu sấm nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491–1585, người mà dân gian quen là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được người đời biết đến với tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam - Bắc triều cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt không chỉ nổi tiếng về văn chương, chính sự mà còn rất nổi tiếng về tài dự đoán. Trong cuốn Phả ký Nguyễn Bỉnh Khiêm được viết vào năm 1743, Vũ Khâm Lân đã nhận xét “Ông là người khôi ngô anh tuấn, học hết các kinh sách lại rất tinh tế về nghĩa lý Kinh Dịch. Phàm việc mưa nắng, lụt hạn, họa phúc, điềm dữ, điềm lành, cơ suy, cơ thịnh... việc gì cũng biết trước”.Đền thờ Trạng Trình ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có những dự đoán tương lai bí ẩn, thường gọi là Sấm Trạng Trình, mà cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc. Vào những năm cuối cùng của thế kỷ 19, nhà sư Vương Quốc Chính, người xã Cổ Am Vĩnh Bảo, Hải Phòng, phát động phong trào chống Pháp đô hộ. Trước đó, trong dân gian đã lan truyền khá rộng câu sấm của Trạng “Thầy tăng mở nước trời không bảo”. Nghĩa đen đã khá rõ, không có trời nào giúp nhà sư, vì đã là người xuất gia tu theo Phật mà còn mưu đồ bá nhà nho thời ấy lại giải thích theo một nghĩa khác, theo họ thì chữ “thầy tăng” ở đây, Trạng nói kín chỉ “thằng Tây” đến cướp nước ta, đô hộ dân ta thì trời không dung thứ. Ngày ấy, chính quyền đô hộ và tay sai rất sợ sấm ký và uy tín của Trạng nên bắt bớ và khủng bố dã man những người đã truyền bá, lưu giữ sấm đến nay, rất tiếc là Sấm Trạng Trình vốn chỉ còn lại ở dạng truyền miệng, chỉ có số ít lưu giữ dưới dạng chép tay. Tuy nhiên, trong những tập sấm ký mà người đời sau sưu tầm được, khó có thể do những ai hiếu sự đã đặt ra, bởi nó đã được cố định hóa trước những sự kiện lịch sử hàng chục, hàng trăm năm, lại được lan truyền rộng rãi trong dân Đàn sinh thánh Đã từ lâu, ở nhiều địa phương trên cả nước, nhất là vùng Nghệ Tĩnh, người ta đã lưu truyền những câu sấm của Trạng Trình như sau “Đụn Sơn phân giải/ Bò Đái thất thanh/ Thủy đáo Lam thành/ Nam Đàn sinh thánh”. Tạm dịch nghĩa là “Khi núi Đụn chẻ đôi, khe Bò Đái mất tiếng, sông Lam khoét vào chân núi Lam Thành, đất Nam Đàn sẽ sinh ra bậc thánh nhân”.Nhà sử học Ngô Đăng Lợi Hải Phòng, người chuyên nghiên cứu về Sấm Trạng cho biết, sau khi thực dân Pháp đàn áp tàn khốc phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, câu sấm này lại được bàn tán trao đổi rộng với niềm khát khao mong chờ vị thánh nhân xuất thế. Lúc đó, khe Bò Đái cũng đã ngừng chảy, tiếng suối chảy ở khe không còn nghe được nữa, do đó người dân càng tin và càng chờ một cuộc gặp giữa cụ Phan Bội Châu, học giả Đào Duy Anh, và nhà nho Trần Lê Hữu, nội dung cuộc đối thoại chỉ xoay quanh tình thế nước nhà và tương lai sẽ ra sao, Trần Lê Hữu có hỏi "Thưa cụ Phan, “Bò Đái thất thanh, Nam Đàn sinh thánh” chẳng phải là cụ hay sao? Cụ còn thất bại nữa là người khác!". Phan Bội Châu đáp "Kể cái nghề cử tử xưa kia tôi cũng có tiếng thật. Dân ra thường có thói trọng người văn học và gán cho người ta tiếng nọ tiếng kia. Nhưng nếu Nam Đàn có thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ chẳng phải ai khác".Khởi nghĩa Yên Bái 1930Sau cuộc khởi nghĩa do Việt Nam Quốc dân Đảng phát động bị thất bại tháng 2 năm 1930 Canh Ngọ, nhiều căn cứ bị Pháp đàn áp, khủng bố dã man như Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, Kiến An, Vĩnh Bảo... Riêng làng Cổ Am bị 5 máy bay đến ném bom làm nhiều người chết, nhiều nhà cửa bị thiêu cháy, đổ nát. Nhân sự kiện này, tuần báo Phụ nữ tân văn số 44 có đăng bài “Ông Trạng Trình có biết trước rằng làng Cổ Am của ông có ngày nay không?”. Tác giả bài viết ngờ rằng Trạng có biết nên “đã dời hết sách vở của ông vào Thanh Hóa... vì theo di chúc của ông thì làng Cổ Am không được bền vững”.Sau đó, báo nhận được một bài thơ do bạn đọc sưu tầm và gửi cho, được cho là bài thơ sấm của Trạng Trình. Phụ nữ tân văn số 48 đã cho đăng bài thơ sấm đó “Hiu hiu gió thổi, lá rung cây/ Từ Bắc sang Nam, Đông tới Tây/ Cửa nhà tan tác ra cồn cát/ Rừng núi ruộng nương hóa vũng lầy/ Tan tác Kiến kiều An đất nước/ Xác xơ Cổ thụ sạch Am mây/ Một gió, một Yên ai sùng Bái/ Cha con người Vỉnh, Bảo cho hay”.Có một người dân làng Cổ Am cho hay, khi Pháp ném bom xuống làng, miếu thờ Trạng bị đổ lây. Mấy tuần sau dân ra sửa sang lại thì phát hiện ra một tấm bia nhỏ khắc ba hàng chữ Hán theo lối triện “Canh niên tân phá/ Tuất, hợi phục sanh/ Nhị ngũ dư bình”.Lúc ấy người ta đoán Canh niên tức là năm Canh Ngọ 1930, còn ý tứ của 2 câu sau cho đến giờ vẫn đang còn tranh luận. Còn bài thơ sấm ở trên chắc chắn có trước năm 1930 và được lưu truyền, những địa danh lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái đều được phản ánh dưới dạng kín mạng Tháng 8Theo các nhà sưu tầm và nghiên cứu, trong các sự kiện lớn của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20, cuộc Cách mạng Tháng 8 năm 1945 đã được Trạng Trình dự báo qua câu thơ “Đầu Thu gà gáy xôn xao/ Trăng xưa sáng tỏ soi vào Thăng Long”.Theo luận giải, ở câu 1, “đầu Thu” là tháng 7 Âm lịch, “gà” nghĩa là năm Ất Dậu, thời điểm sự kiện lịch sử này diễn ra, “gáy xôn xao” nghĩa là có tiếng vang lớn, thức tỉnh muôn câu 2, “Trăng xưa” nghĩa là “cổ nguyệt” theo Hán tự, ghép lại thành từ “hồ”, là họ của Hồ Chủ tịch. “Sáng tỏ soi vào Thăng Long” là sự kiện Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập trước hàng vạn đồng bào ở quảng trường Ba Đình của thủ đô Thăng Long – Hà sử học Ngô Đăng Lợi bên các tài liệu nghiên cứu về Sấm Trạng Trình Cũng liên quan đến sự kiện Cách mạng Tháng Tám, nhà sử học Ngô Đăng Lợi còn sưu tầm thêm một bài thơ trong dân gian, tương truyền là của Trạng Trình để lại “Rồng nằm bể cạn dễ ai hay năm thìn 1940/ Rắn mới hai đầu khó chịu thay năm tỵ 1941/ Ngựa để gác yên không ai cưỡi năm ngọ 1942/ Dê khan ăn lộc ngoảnh về tây năm mùi 1943/ Khỉ nọ bồng con ngồi khóc mếu năm thân 1944/ Gà kia xào xạc cất cánh bay năm dậu 1945/ Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa năm tuất 1946/ Lợn ủn ỉn ăn no ngủ ngày năm hợi 1947”.Nhà sử học Ngô Đăng Lợi cho biết, nếu để ý tới câu thứ 6 thì “Gà kia xào xạc cất cánh bay”, phải chăng là ám chỉ việc quân Pháp bị tước khí giới và phải trở về nước, trả lại nền độc lập cho chúng ta, vì chữ gaulois người Pháp do chữ latin gallus cũng có nghĩa là con gà. Như vậy câu 6 của bài sấm ứng vào Cách mạng Tháng 8. Câu 7 “Chó ve vẩy đuôi mừng thánh chúa” sẽ ứng với việc Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bầu lãnh tụ dân tộc Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước vào năm 1946 năm Bính Tuất.Phóng viên trao đổi với nhà sử học Ngô Đăng Lợi giai thoại về Sấm Trạng Trình Phần lớn các nhà Nho học nước ta cho rằng Trạng Trình am tường sâu sắc kinh Dịch và Lý học nên tiên tri ứng nghiệm. Những lời sấm chủ yếu là tiên đoán giai đoạn từ khi ông qua đời cho đến hôm nay. Các sự kiện như Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân; Cao Bằng tuy tiểu khả diên sổ thế; Nam Đàn sinh thánh... về sau đã ứng nghiệm một cách đáng kinh ngạc. Và còn rất nhiều những câu sấm còn lưu truyền trong dân gian vẫn đang là đề tài phân tích, lý Khang – Minh HảiGhi theo lời kể của nhà sử học Ngô Đăng Lợi Bổ ích Xúc động Sáng tạo Độc đáo
Đỗ trạng nguyên khi đã hơn 40 tuổi, Trạng Trình khiến nhiều người mến phục nhờ tài tiên tri và triết lý "thiện là dòng dõi của giáo dục". Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc nhỏ có tên là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6/4/1491 âm lịch ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng dưới thời vua Lê Thánh Tông - thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Sinh ra trong gia đình có bố mẹ nổi tiếng học rộng, mẹ là con út của quan tiến sĩ thượng thư bộ Hộ triều vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm được giáo dục cẩn thận, rèn luyện cả về thể lực và trí lực nên "to khỏe, thông minh khác thường, chưa đến một tuổi đã nói sõi". Lên 4 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ dạy sách Kinh, thơ Nôm... Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều thuộc huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ngày nay nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bình Khiêm đến tận nơi tầm sư học đạo. Vốn sáng dạ lại chăm chỉ học hành, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh chóng trở thành học trò xuất sắc của thầy và được chính thầy giao con trai cho nuôi dạy. Trạng nguyên ở tuổi hơn 40 và những lời tiên tri nổi tiếng Khi nhà Hậu Lê Lê sơ và Lê trung hưng rơi vào khủng hoảng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không ra ứng thi sớm. Tính từ khi trưởng thành, ông bỏ qua sáu khoa thi dưới triều Lê sơ. Ngay cả khi nhà Mạc lên thay cho Lê sơ năm 1527, xã hội dần ổn định, ông vẫn bỏ qua hai khoa thi đầu dưới triều Mạc. Tới năm 1535, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, thời thịnh trị nhất của nhà Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay trạng nguyên. Năm đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ngoài 40 tuổi. Sau khi đỗ đạt, Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm làm nhiều chức vụ, được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi Trình Quốc Công nên dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Trong gần 20 năm từ 53 đến 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm không ra ở hẳn kinh sư nhưng vẫn đảm nhiệm nhiều việc triều chính. Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết "Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn", "ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước". Tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ảnh Trường THPT chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm - Vĩnh Long Sử sách đều thừa nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, coi ông là nhà tiên tri số một nước Việt. Ông từng đưa ra lời sấm bảo nhà Mạc chạy lên Cao Bằng dựng nghiệp, sau khi thất thủ ở Thăng Long, và sẽ tồn tại ba đời. Quả nhiên, điều này đúng. Ông còn khuyên Trịnh Kiểm "giữ chùa thờ Phật được ăn oản", tìm người trong tông thất nhà Lê lập làm vua. Nhà Trịnh làm theo và từ đó nối đời cầm quyền, nhưng danh nghĩa vẫn là tôn phò nhà Lê. Với nhà Nguyễn, từ khi Nguyễn Kim chết, Nguyễn Uông, con cả của Nguyễn Kim đã bị Trịnh Kiểm ám hại. Trước tình thế nguy nan, Nguyễn Hoàng con trai thứ Nguyễn Kim đã cho người đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhận được câu ẩn ý "Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân"nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được. Nhờ đó, năm 1568 Nguyễn Hoàng đã xin họ Trịnh vào trấn thủ xứ Thuận Hóa rồi dần xây dựng cơ đồ họ Nguyễn ở phương Nam. Trong bài thơ Cự Ngao Đới Sơn, thuộc tập thơ Bạch Vân am thi tập, ông viết "Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững trị bình/ Chí những phù nguy xin gắng sức/ Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình". Câu này như lời khuyên của Trạng Trình với thế hệ sau, rằng phải nắm giữ được biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời. Trong bài viết Tầm nhìn chiến lược về biển đảo của Trạng Trình từ 500 năm trước, tác giả Nguyễn Đình Minh nhận định "Trước đây khi đề cập đến lãnh thổ, chúng ta thường nói nhiều về sông núi, đất đai, chúng ta có nói về biển nhưng không nhiều, biển không là trọng điểm nhấn mạnh. Nhưng từ 500 năm trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo tầm quan trọng của biển đảo dẫn đến sự tồn vong thịnh trị của cả quốc gia. Điều ấy cho thấy tầm chiến lược về bảo vệ của ông rất rộng lớn và toàn diện". Với bài thơ Cự Ngao Đới Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể được coi là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của việc gìn giữ chủ quyền biển Đông. Triết lý giáo dục của người thầy từng đào tạo nhiều nhân tài Ngay từ khi đỗ trạng nguyên, Nguyễn Bình Khiêm đã dạy học. Theo cuốn Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam, học trò được ông đào tạo thời kỳ này có rất nhiều người nổi tiếng về sau. Trong đó có Lương Hữu Khánh, con trai của thầy Lương Đắc Bằng, đỗ cử nhân, trở thành tướng giỏi, văn võ song toàn; Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan thi đỗ tiến sĩ, có tài năng toàn diện về võ bị, văn học và ngoại giao; Nguyễn Dữ - nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam... Đến khi lui về quê, ông đã dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học bên cạnh sông Tuyết hay sông Hàn ở quê nhà. Vì vậy, sau này, các môn sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử". Nguyễn Bình Khiêm đã giáo dục cho nhân dân và học trò rất nhiều về đạo làm người, đạo lý ở đời, sự học, cách học. Ông coi việc giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lý tưởng cống hiến hết mình cho đất nước. Ông đặc biệt đề cao trách nhiệm cống hiến xã hội không ngừng, cho rằng tác dụng cao nhất của giáo dục là cứu nhân độ thế, hướng con người trở về tịnh thiện bởi "thiện là dòng dõi của giáo dục", đúng như phương châm sư phạm xưa. Trên cơ sở giáo dục cái thiện, thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn dạy kinh, truyện theo đúng chương trình thi cử lúc bấy giờ. Theo các thư tịch cổ, việc thi cử lúc bấy giờ rất quy mô, học sinh học vất vả, thầy giáo phải bỏ nhiều công kèm cặp. Việc các học trò của thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm chiếm gần hết thứ hạng cao ở các kỳ thi chứng tỏ việc dạy học của thầy quy củ, nghiêm khắc. "Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khác người ở chỗ muốn đào tạo học trò thành những người có thực học, có trí thức toàn diện để giúp đời", tác giả Trần Lê Sáng viết trong cuốn sách về ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam. Nhiều nghiên cứu về sau chỉ ra rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn chủ trương thúc đẩy con người nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh, có cách hành xử đúng mực trong đời sống. Ông coi việc học phải nhằm hành đạo, yêu cầu các học trò nêu gương bậc thánh hiền, đề cao vai trò của sự tìm tòi, học hỏi. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng coi trọng đạo lý hơn văn chương. Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm thơ văn. Ông sáng tác rất nhiều thơ văn, bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Về thơ chữ Hán, Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân am thi tập với khoảng một nghìn bài. Trần Thị Vinh viết trong cuốn Nhà Mạc và thời đại nhà Mạc - Hơn hai mươi năm nghiên cứu và nhận thức rằng đây là con số mà từ thời đại nhà Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có. Đến như Nguyễn Trãi cũng chỉ có 105 bài. Về thơ chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập nhưng không rõ có tất cả bao nhiêu bài. Ngoài ra, ông để lại nhiều bài văn bia và sấm ký. Ông được coi là người viết nhiều thơ văn nhất trong năm thế kỷ đầu tiên của nền văn học nước nhà. Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585. Trong rất nhiều đóng góp của cho nền văn hóa dân tộc, đóng góp lớn lao cho sự nghiệp giáo dục được nhiều nhà khoa học đánh giá cao. Tất cả thành tựu giáo dục ở thời Mạc, không thể không nhắc tới công lao của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngày nay, nhiều trường học được đặt theo tên ông nhằm tưởng nhớ đến bậc thầy vĩ đại.
Ngày đăng 23/10/2017, 1545 Sau khi Trạng mất, ở làng Cổ Am có lập đền thờ. Một hôm ở trong làng có cha con thằng Khả đi bắt chuột ở bên ngôi mộ cụ vô ý làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng thấy thế mới bắt về đình phạt ba quan tiền vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sauCha con thằng KhảĐánh ngã bia taoLàng xóm xôn xaoBắt đền tam quanCha con thằng Khả chạy đi kiếm mãi cũng chỉ được có một quan tám nhưng dân làng không chịu. Nó cãi rằngCha con tôi lỡ lầm nên cụ Trạng chê bắt phạt có quan tám. Cụ đã biết trước cha con tôi chỉ chạy được có như thế nên mới nói bắt đền tam quán mà nói lái thì thành quan tám chứ không phải ba quan. Ai đời nếu không thế sao cả bài không có chữ Nho nào nên mới dùng hai chữ Nôm nói lái mà ra. Dân làng không tin hãy cứ xin âm dương trong đền cụ mà túng thế, cha con thằng Khả cãi liều như vậy nhưng dân làng nghe cũng có lý mới đi lễ dền cụ xin âm dương thì quả như vậy thật. Cứ xin hoài ba quan mà hai đồng tiền vẫn cứ khi thì xấp cả, khi thì ngửa tới khi khấn là quan tám mới dược đồng xấp, đồng ngửa mà thôi. Mọi người lại càng tin phục cụ Trạng. Nguyễn bỉnh Khiêm Câu chuyện Nguyễn Bỉnh Khiêm lời tiên tri ông Giai Thoại Nguyễn Bỉnh Khiêm Ngày xưa, đời Hồng Đức nhà Lê, làng Trung An huyện Vĩnh Lại Hải Dương có nhà nho sĩ Văn Định kết duyên quan thượng Nhữ Văn Lan Tiểu thư họ Nhữ nhan sắc tuyệt vời, thông minh xuất chúng, giỏi văn chương, tinh tướng số, kén chồng đến hai mươi tuổi, thấy Văn Định có tướng sinh quý tử nhận lời trao hôn Hai người lấy sinh trai mặt mũi tinh anh, đặt tên Bỉnh Khiêm, chưa đầy tuổi biết nói Được mẹ dạy bảo, lên bốn tuổi Bỉnh Khiêm thông kinh truyện, học đến đâu thuộc lòng đến đó, nhớ đọc lúc chục thơ nôm Khi tóc để trái đào, hôm Bỉnh Khiêm bọn trẻ tắm bến Hàn, có kể thuật sĩ thuyền trông thấy nói rằng "Cậu bé có tướng làm vua, tiếc da thịt dày quá, làm đến Trạng nguyên, Tể tướng cùng"! Mồ côi sớm, Bỉnh Khiêm tay hiệp khách giang hồ tên Lý Hưng Chi nhận làm nuôi giao cho người bạn trụ trì đem dạy dỗ chùa Lớn lên, Bỉnh Khiêm theo học ông Bảng nhỡn Lương Đắc Bằng Thanh Hóa Lương tiên sinh hồi sang sứ nhà Minh, gặp người họ ngụ cư bên Tàu Lương Nhữ Hốt có tặng cho Thái Ất thần kinh, đem học tập tinh lý số, tiên tri Bỉnh Khiêm thày truyền lại phép thuật tinh vi, cụ Lương trao cho kinh Thái Ất, tác phẩm đạo sĩ Triệu Nga đời Tống thế kỷ thứ X Bấy nước biến loạn, Bỉnh Khiêm ẩn, lấy việc ngao du sơn thủy làm thú đời Ông lên chơi chùa Bội Sơn, gặp lại nhà sư dạy dỗ thuở bé cầm đầu đảng cướp Hồng Nhật Các tham quan ô lại nhà giàu độc ác bị đảng cướp trừ diệt, lấy để giúp cho người nghèo khó Quan phủ Vương Liêu Thăng kẻ sâu dân mọt nước bị Lý Hưng Chi tay hạ sát, triều đình treo giải thưởng lớn cho lấy đầu họ Lý Bị tập nã riết, Lý Hưng Chi tìm đường trốn sang Tàu, đem theo Nguyễn Bỉnh Khiêm vài hạ tâm phúc Vượt núi, băng rừng nhiều ngày, đến giáp giới Trung Quốc, Lý Hưng Chi ghé lại trại người bạn cũ, vùng núi non với hai ngàn thủ hạ Chủ trại Hoàng Mưu vợ sớm, có người gái đến tuổi lấy chồng, thấy Bỉnh Khiêm người lỗi lạc, ngỏ ý với Lý Hưng Chi muốn gả cho Đính hôn sau, Lý Hưng Chi Bỉnh Khiêm đám tùy tùng nhờ Hoàng Mưu giúp vượt qua biên giới Tiến vào nội địa Trung Hoa, đường họ gặp toán cướp lớn chặn đánh, có Lý Hưng Chi thoát được, Bỉnh Khiêm đám người theo bị bắt Tướng cướp Lý Lăng Tử tra hỏi, thấy Bỉnh Khiêm người thông thái, giỏi lý số, tiên tri, giữ lại tôn làm quân sư Trại núi kỳ vĩ, chung quanh có nhiều dãy núi cao bao bọc thành lũy thiên nhiên Bỉnh Khiêm miễn cưỡng phải lại đây, suốt ngày đọc sách ngâm thơ Một hôm, có ông già ăn mặc nâu sồng, đeo khăn gói đỏ, tay chống gậy trúc lần mò đến cổng trại Bị quân canh đuổi đi, ông già trở đi, trở lại đến lần thứ ba, nằn nì đòi xin gặp chủ trại Bỉnh Khiêm dạo, trông thấy ông già cốt cách khác thường, gọi hỏi chuyện ông ta nói "Tôi kẻ ngao du sơn thủy, khảo sát địa lý để tìm nơi gửi nắm xương tàn, đến chốn thấy có khí lạ, dừng bước lại" Rồi ông già ngắm Bỉnh Khiêm mà bảo rằng "Tôi đoán ông người vùng này, mà thượng khách chủ trại Nhưng chốn bị quân triều đình đến đánh mai" Hỏi thêm, ông già không nói, bảo có biết lý số, thiên văn, năm trời tìm sách để thông suốt khứ vị lai mà chưa gặp Bỉnh Khiêm tò mò hỏi "Cụ bảo sách mà thần diệu thế"? Ông già đáp "Đó sách thần, có đủ phép tắc dạy cho biết rõ việc khứ, tương lai Quyển sách trước tay thày dạy qua đời, tặng cho người dòng họ làm sứ thần nước Việt, nghe ông trao lại cho môn đệ Đó kinh lấy tên Thái Ất Nhưng biết vị sứ thần môn đệ ông ta dùng sách ấy, toàn câu kinh kỳ bí, mà họ lời giải Tôi có lời giải mà kinh Thái Ất" Bỉnh Khiêm hỏi tới "Sao thày dạy cụ lại truyền cho cụ biết lời giải mà không cho cụ sách"? Ông già đáp "Theo lệ cổ truyền không giữ kinh lâu đời Sứ thần Việt kinh, phần giải Khi thày dạy mất, có trao phần giải cho mà không dặn rõ phải công hai năm tìm kinh Tôi tính đến hôm vừa hai năm" Bỉnh Khiêm vội lấy hành lý sách bọc vải điều trao tận tay ông già Vừa lật xem qua trang, ông già không giấu nỗi ngạc nhiên sung sướng, trang trọng đặt sách lên trước mặt sụp lạy Cả hai người tuổi tác cao thấp chênh lệch, làm lễ đồng môn với nhau, bắt đầu trao đổi nghiên cứu kinh Thái Ất Trong vòng bảy hôm, họ thuộc lòng kinh lời giải đáp, vội vã chia tay, sợ xúc phạm đến thiên cơ, hai thành tiên tri, thấu suốt khứ, tương lai Ông già tức Hoàng Thạch Lâm phương bắc, Nguyễn Bỉnh Khiêm phía nam Trở nước, gặp lúc nhà Mạc ngôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ Trạng nguyen, vua phong làm Đông đại học sĩ Làm quan tám năm ông dâng sớ xin chém đầu mười tám tên nịnh thần, vua Mạc không nghe, ông cáo bệnh từ quan Khi ông trí sĩ, dựng nhà chơi mát làng gọi am Bạch Vân, lại làm quán bên sông Tuyết Giang, dựng bia ký Lúc bơi thuyền chơi bể Kim Hải bể Úc Hải, lúc vài nhà sư dạo chơi núi An Tử, núi Ngọc Vân núi Đồ Sơn Đi đến đâu làm thơ ngâm vịnh, gặp chỗ phong cảnh đẹp dừng lại, thường ngày không để ý đến việc đời, sống nhàn tản theo chủ trương Lão, Trang Triều Mạc quý trọng, lấy lễ sư phó đãi ông, có việc sai sứ tìm đến hỏi ý kiến mời kinh để thương nghị trọng yếu Vua Mạc phong ông làm Thái phó Trình Quốc công Người đương thời gọi ông Trạng Trình Học trò Trạng Trình tác thành nhiều, danh có Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử Lúc nhà Lê bắt đầu trung hưng, vua Mạc ngự giá đến nhà ông hỏi kế công thủ, Trạng Trình bảo rằng "Ngày sau nước có việc, đất Cao Bằng nhỏ, giữ phúc đến vài đời" Sau bảy năm, nhà Mạc mất, lui giữ đất Cao Bằng, nhiên truyền ba đời, bảy mươi năm tuyệt Khi vua Lê Trung Tông mất, kế vị, Trịnh Kiểm cầm quyền, sai Phùng Khắc Khoan đến hỏi ý kiến ông, ông không nói gì, quay lại bảo người nhà rằng "Năm mùa, nên tìm giống cũ mà gieo mạ" Phùng Khắc Khoan nói lại, Trịnh Kiểm hiểu ý ông, tìm Lê Duy Bang dòng nhà Lê về, lập lên làm vua Một lần Trịnh Tùng có ý chiếm vua, sai sứ đến hỏi ông, ông không nói gì, đưa chơi chùa núi, bảo tiểu rằng "Giữ chùa thờ Phật có oản ăn" Sứ giả nói lạị Trịnh Tùng biết ý ông khuyên phải giữ đạo làm hưởng phúc, nên manh tâm bội nghịch Vào lúc Trịnh Kiểm có ý hại Nguyễn Hoàng, chúa Nguyễn lấy làm lo, mật sai người cầu ông bày cho kế lánh họa Ông chống gậy chơi vườn cảnh, có dãy đá xếp lại làm non quanh co đến trước sân, có đàn kiến đương bò đá, ông đưa mắt nhìn theo đàn kiến mà nói rằng "Một dải núi Hoành Sơn nương thân đến muôn đời" Người sứ thưa lại, chúa Nguyễn tâm xin vào trấn thủ xứ Thuận, Quảng miền Hoành Sơn, nhiên ngày thịnh, dựng nên nghiệp nhà Nguyễn lâu dài Trạng Trình tinh thuật số, đoán trước nhiều việc đúng, để lại số sấm ký sau, người ta truyền ứng nghiệm Trước mất, ông có viết tờ chúc thư gửi cho viên tri huyện vùng ông đời sau, có câu "Tôi cứu cho ông khỏi chết sà nhà đổ, ông cứu cho cháu nghèo khổ" Ông trao cho cháu thư dặn đến ngày tháng ấy, mang đến đưa cho quan huyện, nhớ gọi khỏi công đường mà trao Quả nhiên ngày nói trên, viên tri huyện nghe có cháu ông Trạng Trình đến kiếm, bước tiếp, vừa khỏi cột sà ngang lớn bị mọt đục gãy rơi chỗ ghế ngồi Thoát chết, ông huyện xem thư hết lòng cảm phục, liền đưa cháu ông Trạng Trình nhà hết lòng nuôi cho ăn học Trạng Trình để lại cho đời trăm thơ nôm gọi Bạch Vân Am thi tập, sống đến 95 tuổi Những sấm ký ông truyền lại, người đời sau đem việc xảy để đối chiếu, giải thích gần đây, chứng nhận Cha thằng Khả Sau Trạng mất, làng Cổ Am có lập đền thờ Một hôm làng có cha thằng Khả bắt chuột bên mộ cụ vô ý làm đổ bia mộ Dân làng thấy bắt đình phạt ba quan tiền bia đổ xuống thấy có hàng chữ sau Cha thằng Khả Đánh ngã bia tao Làng xóm xôn xao Bắt đền tam quan Cha thằng Khả chạy kiếm có quan tám dân làng không chịu Nó cãi rằng "Cha lỡ lầm nên cụ Trạng chê bắt phạt có quan tám Cụ biết trước cha chạy có nên nói bắt đền tam quán "Tam quán" mà nói lái thành quan tám ba quan Ai đời không chữ Nho nên dùng hai chữ Nôm nói lái mà Dân làng không tin xin âm dương đền cụ mà xem" Vì túng thế, cha thằng Khả cãi liều dân làng nghe có lý lễ dền cụ xin âm dương thật Cứ xin hoài ba quan mà hai đồng tiền xấp cả, ngửa Chỉ tới khấn quan tám dược đồng xấp, đồng ngửa mà Mọi người lại tin phục cụ Trạng Thánh nhân mắt mù Khi chết, Trạng có ghi vào gia phả dặn cháu rằng - "Bình sinh ta có bia đá sẵn sơn Khi ta nhắm mắt rồi, chúng bay phải nhớ hạ quan tài xuống phải để bia đá lên nắp lấp đất sau Hễ có người lạ đến viếng mộ ta mà nói "Thánh nhân mắt mờ" mời người nhà, yêu cầu họ để hướng lại mộ cho ta Chúng bay phải nhớ canh chừng , không dược cải cát Nếu trái lời ta, dòng dõi sau suy đồi lụn bại" Con cháu nghe lời, làm y cách dặn Cách 50 năm sau, hôm có người Tàu đến nhìn mộ cụ lúc nói rằng Cái huyệt đằng chân sờ sờ mà lại tự dem để mả Vậy mà thánh nhân đâu, Thánh nhân mắt mù Người họ nghe được, chạy cho ông trưởng lộc hay Ông vội vàng đón người Tàu nhà, xin để xoay mộ lại Khi tiếp truyện, hay người nhà phong thủy trứ danh Trung Quốc vừa sang ông ta lại muốn xem di tích cụ Trạng, lâu ông ta nghe tiếng đồn Trạng Khi nghe nói, ông ta sẵn lòng sửa lại mộ cho, hiu hiu tự dắc cho giỏi Trạng Trình "Với cụ Trạng thực nghe người ta đồn đến nơi thực mục sở thị, có giỏi dâu" Ông ta bảo - Không cần phải đem đâu xa cả, đào lên xoay lại nhích chút Ông tộc trưởng mừng, tụ họp cháu lại đưa thầy dịa lý Tàu dể lại mộ Khi đào đến bia đá, ông thầy Tàu thấy làm lạ, lại sẵn tính hiếu kỳ, ông bảo đem rửa xem có đó, lớp sơn mục Con cháu cụ tôn trọng thầy nên phải chiều lòng Khi bia rửa đem lên, thấy câu thơ sau ra Ngũ thập niên tiền mạch đầu, Ngũ thập niên hậu mạch qui túc, Hậu sinh nhĩ bối ná tri? Hà vị thánh nhân vô nhĩ mục? Có nghĩa là Ngày mạch lộn xuống chân, Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu Biết gì, kẻ sinh sau? Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ? Khi xem tới thơ dây, ông thầy Tàu lúc phục Trạng vị Thánh thật, tiên tri thật, không biết trước lời nói Quả thật xứng dáng học trò cụ mà Cây sà nhà đổ Cũng mất, Trạng có giao cho cháu ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu dặn đến năm tháng ấy, ngày ấy, phải để ống vào kiệu rước lên dinh tổng dốc Hải Dương, trao ống cho quan cứu vãn tình gia đình tuyệt đối không mở xem , trừ quan tổng đốc Cái ông tre truyền đến người cháu đời cụ, rước lên dinh quan tổng đốc, vào ngày ghi gia phả Khi quan mở ống, thấy cuộn giấy, ngài rút xem thấy có hai câu chữ nho Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách, Nhĩ cứu ngã thất chi bần Nghĩa là Ta cứu mày khỏi sà nhà đỏ, Mày cứu ta cháu bảy đời nghèo Ngựa đá sang sông Nguyên Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sống làng Vĩnh Lại, tiếng có tài học rộng hiểu nhiều, tiên đoán nhiều cho thí sinh ứng thí khoa thi làng lân cận thành danh, riêng nơi ông sống Vĩnh Lại chẳng thành quan Trong ghen tị từ sống nghèo khổ, dân làng Vĩnh Lại cho Trạng trình không ý đến người nhà Một ngày nọ, trạng Trình cho người dựng tượng ngựa đá bên dòng sông, viết lên câu thơ Hà thời thạch mã độ giang Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu nghĩa ngựa đá sang sông làng Vĩnh Lại đầy công đầy hầu Nhưng ôi người tin ngựa đá sang sông Câu chuyện từ lạc người ta bắt đầu quên lãng Hai trăm năm sau Nguyễn Bỉnh Khiêm mất, làng Vĩnh Lại gặp trận lụt to Và trận lụt đổi nguồn dòng sông từ trước mặt ngựa đá sang sau lưng ngựa đá, lời tiên tri ứng nghiệm Khi dân làng Vĩnh Lại lên mặt với làng kế cận, cô gái muốn Vĩnh Lại làm dâu Thời gian này, Tây Sơn chiếm nửa giang sơn, lần bắc tiến đầu tiên, khiến vua Lê bỏ thành mà chạy, lưu lạc đến làng Vĩnh Lại Dân làng Vĩnh Lại tìm vua, đem phò Vua ban công ban tước cho làng áp lực dân làng Vĩnh Lại, dĩ nhiên mà giang sơn vài chức tước tự nghĩ có hà đáng gì? Dân Vĩnh Lại sau phong tước, tập họp quân đội sẵn sàng cần vương Nhưng đội quân ô hợp trận bị đội quân bách chiến bách thắng Tây Sơn đánh tan nát, làng Vĩnh Lại tử vong vô số, gần tuyệt diệt Phải Nguyễn Bỉnh Khiêm lường họa sát thân làng Vĩnh Lại từ 200 năm trước chăng? Sắt ngắn ngỗ dài Hồi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan quê làng Trung Am mở trường dạy học, học trò theo học đông Vào buổi tối 30 tết năm nọ; ông Trạng ngồi đàm luận lý số với anh học trò xuất sắc ông đến thăm biếu ông lễ vật, cổng có tiếng người gọi Ông sai gia nhân bảo chờ chút Trong đó, ông người học trò bấm quẻ để thử đoán xem người vào có việc gì? Cả hai thầy trò bấm vào quẻ "thiết đoản, mộc trường" Nghĩa "Sắt ngắn, gỗ dài" Ông hỏi người học trò - Vậy anh đoán người vào có việc gì? Anh học trò trả lời - Thưa thầy! "Thiết đoản, mộc trường, theo ý con, người vào hẳn có mượn mai đào đất mà thôi, không "sắt ngắn, gỗ dài" Ông cười nói - Khác với anh, lại đoán người vào mượn búa Nói xong, ông cho mở cổng Quả nhiên người vào hỏi mượn búa thật Anh học trò chững người đoán sai Thấy vậy, ông giải thích cho anh học trò - Kể anh bấm quẻ giỏi, mức đoán thấp Anh bảo "sắt ngắn, gỗ dài" mà đoán mượn mai, thử hỏi, 30 tết người ta đến để mượn mai làm chứ? Còn bảo người vào mượn búa để bổ củi nấu bánh chưng Tết mà Bấm quẻ đoán phải có ý thức biến, mà tránh sai lầm Anh học trò bái phục thầy, xin nhận lời bảo quí Trạng Trình thật người suy đoán giỏi ... sông làng Vĩnh Lại đầy công đầy hầu Nhưng ôi người tin ngựa đá sang sông Câu chuyện từ lạc người ta bắt đầu quên lãng Hai trăm năm sau Nguyễn Bỉnh Khiêm mất, làng Vĩnh Lại gặp trận lụt to Và. .. ngôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ Trạng nguyen, vua phong làm ông đại học sĩ Làm quan tám năm ông dâng sớ xin chém đầu mười tám tên nịnh thần, vua Mạc không nghe, ông cáo bệnh từ quan Khi ông trí... Phải Nguyễn Bỉnh Khiêm lường họa sát thân làng Vĩnh Lại từ 200 năm trước chăng? Sắt ngắn ngỗ dài Hồi Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan quê làng Trung Am mở trường dạy học, học trò theo học ông Vào buổi - Xem thêm -Xem thêm Câu chuyện về nguyễn bỉnh khiêm và lời tiên tri của ông, Câu chuyện về nguyễn bỉnh khiêm và lời tiên tri của ông,
nguyễn bỉnh khiêm tiên tri về bác hồ